1. ĐẠI CƯƠNG MÔ HỌC DA THƯỜNG
Da là một cơ quan lớn nhất của cơ thể. Da người lớn có độ dày từ 1,5 — 4mm; diện tích l,5m2 — l,8 m2 — 2m2. Một người trưởng thành nặng 60kg thì trọng lượng của da khoảng 4 kg. Nếu tính cả hạ bì và mô mỡ trọng lượng da khoảng 15kg.
Sau khi thụ thai được 2 tuần đĩa phôi tách thành hai lớp, một lớp là một hàng tế bào hình trụ đó là lá thai ngoài; một lớp gồm một hàng tế bào hình vuông đó là lá thai trong. Đến tuần thứ 3 xuất hiện lá thai giữa. Lá thai ngoài sẽ phát triển thành tổ chức thần kinh và thượng bì. Lá thai giữa sẽ phát triển thành xương, cơ, tổ chức đệm, trong đó có trung bì, hạ bì, bộ máy tiết niệu và tuần hoàn. Lá thai trong sẽ phát triển thành bộ máy tiêu hóa và hô hấp.
2. MÔ HỌC DA THƯỜNG
Da người có ba lớp: thượng bì, trung bì và hạ bì.
2.1. Thượng bì (epidermis)
Thượng bì xuất hiện ở bào thai vào tháng thứ 2, gồm ba lớp tế bào. Đến tháng thứ 4 có bốn lớp. Đến tháng thứ 8 xuất hiện các gai (nhú bì). Cuối tháng thứ 8 bắt đầu có hiện tượng sừng hóa.
Thượng bì là một biểu mô vảy có nhiều lớp, dày khoảng 0,lmm, ở lòng bàn tay, bàn chân khoảng 0,8 -l,4mra.
Tế bào chính của thượng bì là tế bào sừng (keratinocyte) sản xuất ra chất sừng (protein keratin). Tính từ dưới lên thượng bì có 4 lớp (lớp đáy, lớp gai, lớp hạt, lớp sừng). Riêng lòng bàn tay, bàn chân có 5 lớp (thêm lớp sáng).
2.1.1. Lớp đáy (stratum basale): hay còn gọi là lớp cơ bản, lớp sinh sản (basal cells): là lớp sâu nhất của thượng bì, gồm một lớp tế bào hình trụ nằm sát ngay phía trên màng đáy. Nhân hình bầu dục nằm chính giữa. Nguyên sinh chất ưa kiềm chứa những hạt melanin.
Rải rác, xen giữa những tế bào cơ bản có những tế bào sáng, tế bào có tua. Đó là tế bào sắc tố (melanocyte), tế bào này sản xuất ra sắc tố (tế bào sắc tố chiếm khoảng 5 — 10% tổng số tế bào đáy). Tế bào sắc tố có nhiều nhất ở mặt và những vùng tiếp xúc với ánh sáng và là nguồn gốc các mào thần kinh. Ngoài ra ớ lớp đáy còn tìm thấv tế bào Meckel. Các tế bào này có liên quan chặt chẽ với các sợi tận cùng của thần kinh da và dường như có vai trò cảm giác. Giữa những tế bào đáy có những cầu nối gian bào (desmosome). Tế bào đáy liên kết chặt chẽ với màng đáy bằng nửa cầu nối gian bào (hemidesmosome).
Lớp đáy sản xuất ra những tế bào mối thay thế tế bào cũ đã biệt hoá, tạo nên sự đổi mối của thượng bì, Nhìn chung phải mất 4 tuần (28 ngày) tế bào đáy sẽ dần dần biệt hóa tối lớp sừng. Một số bệnh như vảy nến, vảy phấn, quá trình biệt hóa từ tế bào đáy đến tế bào sừng nhanh hơn (khoảng 3 tuần).
2.1.2. Lớp gai (stratum spinosum)
Lớp gai (hay còn gọi là lớp nhày, lớp malpighi, lớp tế bào vảy). Lớp gai là lớp tế bào hình đa diện, do các tế bào đáy di chuyển dần lên mà thành. Nguyên sinh chất bắt màu toan, nhân hình bầu dục có hốc sáng. Các tế bào gai nằm sát nhau, nối với nhau bằng cầu nối gian bào. cầu nối này còn gọi là các gai (spinosum), làm cho thượng bì vững chắc, làm cho da không bị ngấm nưốc từ môi trường bên ngoài vào cơ thể, không bị thoát nước từ cơ thể ra ngoài, chổng lại các tác nhân có hại của môi trường (sinh học, cơ học, lý học, hóa học).
Bình thường lớp gai có từ 5 – 12 hàng tế bào. Càng đi lên phía trên tế bào lớp gai càng dẹt dần. Tùy từng vùng da cơ thể khác nhau mà lớp gai có số lượng các hàng tế bào khác nhau (ở mi mắt có khoảng 3-4 hàng tế bào, ở lòng bàn tay, bàn chân có khoảng 20 — 30 hàng tế bào).
Trong lớp gai có tế bào nhiều tua (tế bào hình cành cây) đó là tế bào Langerhans có chức năng miễn dịch. Các tế bào gai cũng có khả năng sinh sản gián phân góp phần làm đổi mới thượng bì.
2.1.3. Lớp Hat (stratum granulosum)
Lớp tế bào hạt (granular cells) gồm bốn hàng tế bào dẹt hơn tế bào gai. Nhân tế bào sáng hơn và có hiện tượng đang thoái hóa (hư biến). Nhân dẹt han do nhân bị phân hủv bơi các men thủy phân. Các chất nhiễm sắc bị vón cục, nhân sáng có nhiều hạt. Nguyên sinh chất chứa nhiều hạt keratohyalin do mỡ và sợi tơ keratin (tonofibril) tạo thành. Giữa các tế bào lớp hạt cũng có những cầu nối gian bào nhưng ngắn hơn và to hơn so với cầu nối ở lớp gai. Lớp hạt là lớp tế bào thượng bì cuối cùng còn nhân và cầu nối.
2.1.4. Lớp sáng (stratum lucidum)
Lớp sáng nằm giữa lớp hạt và lỏp sừng gồm 2-3 hàng tế bào rất dẹt nằm song song với mặt da. Các tế bào ở lớp sáng không có nhân, không có nguyên sinh chất, chỉ có những sợi. Lớp sáng chỉ có ở lòng bàn tay, bàn chân. Các vùng da khác không có lớp sáng.
2.1.5. Lớp sừng (stratum corneum)
Lớp tế bào sừng (horny cells) là lớp ngoài cùng của thượng bì, dày khoảng Ip. Lớp sừng là kết quả cuổì cùng của sự biệt hoá các tế bào lớp thượng bì. Tế bào sừng là những tế bào dẹt không có nhân chứa đầy những mảnh sừng và mỡ chồng chéo lên nhau tạo nên một màng bảo vệ cơ thể không bị nước thấm vào, tránh nhũng tác dụng của môi trường bên ngoài cũng như mất nước từ bên trong cơ thể. Ở những vùng da khác nhau, lớp sừng dày, mỏng khác nhau. Thí dụ ở lòng bàn tay. bàn chân thì lớp sừng dày hơn ở những vùng da khác. Bình thường những tế bào sừng phía ngoài tách rời và bong ra liên tục tạo nên những vảy nhỏ như phấn, quện với mồ hôi và chất bã tạo thành ghét.
Đặc điểm của lớp thượng bì:
Các tế bào d lớp thượng bì luôn luôn đổi mói, thay đổi dần hình thể. Lúc đầu các tế bào có trục thảng đứng, sau đó càng ngày càng dẹt dần, có trục nầm ngang. Nhân càng lên cao càng hư biến, cuôi cùng nhân bị thoái hóa và tế bào không còn nhán. Càng lèn cao tế bào càng nhiễm các hạt sừng. Thượng bì không có mạch máu, nó dược nuôi dưỡng bằng dịch khu trú ở liên gian bào. Các sợi thần kinh chỉ phần nhánh đến lớp đáy.
2.2. Trung bì (dermis)
Trung bì và thượng bì ngăn cách nhau bởi màng đáy (hay còn gọi là màng cơ bán). Màng đáy dày chừng 0,5 mm. Các dịch sẽ từ trung bì ngấm qua màng đáy để nụôi dưỡng thượng bì. Ranh giới giữa thượng bì và trung bì không phải là một đường thẳng mà là đường lượn sóng. Phần sóng nhô lên phía trên là gai bì (hay nhú bì, hay còn gọi lầ trung bì nông). Phần sóng lượn xuống dưới giữa hai gai bì (hai nhú bì) gọi là mào liên gai (hay là mào liên nhú). Cấu trúc của màng đáy gồm bốn thành phần:
– Nửa cầu nối gian bào (hemidermosome). Đường kính của nửa cầu nối gian bào khoảng 500 – 1000 nm, gồm các sợi tơ keratin (tonoíĩlament); sợi bám để nối màng bào tương với lá đặc (lamina densa).
– Lá sáng (lamina lucida) dày khoảng 20 – 40nm.
– Lá đặc (lamina densa) dày khoảng 30 – 40 nm trong đó chứa chất collagen.
– Dưới lá đặc (sub—lamina densa) có nhiều bó vi sợi bán chất là collagen.
Trung bì gồm các lớp:
2.2.1. Trung bì nông (papìlỉary dermis): đó là lớp nuôi dưỡng. Trên bê mặt có những gai nhô lên còn gọi là nhú bì hay gai bì (papille) ăn sâu vào thượng bì. Các gai do tổ chức liên kết non tạo nên, ở đó có nhiều mao mạch. Các nhú bì có chiều cao và độ lớn khác nhau tùy theo vùng da. Da ở da lòng bàn tay, bàn chân các nhú có khi cao tới 0,2 mm, ở da mặt thì lớp nhú rất mỏng.
2.2.2. Trung bì chính thức hay còn goi là trung bì sáu (reticular dermis)
Trung bì chính thức gồm có:
– Những sợi chống đỡ
+ Sợi keo hay còn gọi là sợi hồ (collagen fiber). Đó là những sợi thẳng không phân nhánh, dài vài micron. Cấu tạo bỏi những chuỗi polypeptid, gồm 20 loại acid amin khác nhau, chủ yếu là glvcin và argenin. Sợi keo có thê bị phá hủy bơi men collagenase do VI khuẩn tiết ra và được thay thế bàng các sợi mới.
Sợi keo là chất liệu chính làm cho da vững chác trước tác động cơ học, lý học, hóa học từ bên ngoài.
Sợi keo tập trung chủ yếu ở trung bì sâu, một ít ở nhú bì, nang lông, tuyến bã. tuyến mô hôi, quanh mạch máu.
+ Sợi chun (elastic fiber) (hay còn gọi là sợi đàn hồi)
Đó là những sợi rất mỏng, nhẵn có phân nhánh lượn sóng, bắt nguồn từ sợi keo, bắt màu đen khi nhuộm bạc, bắt màu nâu khi nhuộm accin.
+ Sợi lưới
Sợi lưới tạo thành mạng lưới móng bao quanh mạch máu, tuyến mồ hôi, cấu true giống sợi keo.
+ Sợi liên võng (reticulum fiber)
Sợi hên võng là dạng đặc biệt của sợi tạo keo, tập trung ở trung bì nông, phần phụ của da, mạch máu.
Các chất cơ bản
Các chất cơ bán là một màng nhày gồm trvptophan; tyrosin; mucopolysaccharid; hyaluronic.
– Tế bào
+ Các tế bào xơ hình thoi hoặc hình amíp, có nhân to hình bầu dục, chứa nhiều hạt ty lạp thể, có tác dụng làm da lên sẹo.
+ Tổ chức bào hình thoi hoặc hình sao, nó có thể biến thành thực bào, đại thực bào.
+ Dưỡng bào (mastocyte) tham gia quá trình chuyển hóa heparin, histamìn, acid hyaluronic.
– Mạch máu, trung bì chỉ có những mạch máu nhỏ tập trung ở gai bì và quanh các tuyến.
– Thần kinh
ở da có hai loại thần kinh:
+ Thần kinh não tủy có vỏ myêlin, có nhánh di riêng.
+ Thần kinh giao cám không có vỏ myêlin chạy trong các bao mạch máu.
Thần kinh da được tạo thành từ đám rối ở hạ bì, sau đó phân nhánh chạy thẳng góc tối các đầu gai bì rối tận cùng ở lớp hạt. Ngoài những nhánh này, thần kinh da còn có những nhánh cuộn tròn lại thành những tiểu thể. Có năm loại tiểu thể:
– Tiểu thể Vater Pacini khu trú ở đáy trung bì, có nhiều ở lòng ngón tay, chi phôi xúc giác (sờ mó).
– Tiểu thể Buffini chi phối cảm giác nóng.
– Tiểu thể Krause chi phối cảm giác lạnh.
– Tiểu thể Golgi — Mazzoni chi phối xúc giác.
– Tiểu thể Messer chi phối cảm giác tiếp xúc.
2.3. Hạ bì (subcutaneous layer)
Hạ bì nằm giữa trung bì và cân cơ hoặc màng xương. Đó là tổ chức đệm biệt hóa thành tổ chức mỡ, có nhiều ô ngăn cách bởi những vách, nối liền với trung bì trong đó những mạch máu, thần kinh phân nhánh lên phía trên. Độ dày của hạ bì tùy thuộc vào thể trạng từng người. Đây là kho dự trữ mỡ lớn nhất của cơ thể, có chức năng điều hòa nhiệt.
2.4. Các thành phần phụ của da
2.4.1. Tuyến mồ hôi (sweat glands)
Tuyến mồ hôi là tuyến ngoại tiết gồm ba phần:
– Cầu bài tiết hình tròn khu trú ở trung bì sâu, có hai lớp tế bào là tế bào bài tiết và tế bào vỏ (bao bọc xung quanh tuyến).
– Ống dẫn qua trung bì.
– Ống dẫn đoạn qua thượng bì có hình xoắn ốc, gồm một lớp tế bào có nhiễm hạt sừng.
Tùy vùng cơ thể mà số lượng tuyến mồ hôi có khác nhau, ở lòng bàn tay, bàn chân có khoảng 620 cái/lcm2, đùi có khoảng 120 cái/cm2. Toàn bộ cơ thể có khoảng 2,5 triệu tuyến. Tuyến mồ hôi làm nhiệm vụ điều hòa thân nhiệt, góp phần làm cho thân nhiệt hầng định. Sự bài tiết mồ hôi được điểu chỉnh bởi thần kinh giao cảm ở xung quanh tuyến, các trung khu dọc tủy sống, vùng dưới đồi. Các chất như pilocarpin, cholin, adrenalin làm tăng tiết mồ hôi, atropin làm giảm bài tiết mồ hôi.
2.4.2. Tuyến bã (sebaseous glands)
Tuyến bã là tuyến ngoại tiết nằm ở cạnh nang lông, thông với nang lông bằng ống tiết. Đó là một trùm nang tuyến có nhiều thùy, mỗi thùy gồm nhiều lớp tế bào. Trong cùng là nhưng tế bào sản xuất ra chất mỡ. Chất mỡ đào thải qua ống tuyến lên mặt da.
Có hai loại tuyến bã nang lông:
– Tuyến bã nang lông dài: nằm ở da đầu, râu, lông nách, lông mu. Tại những nơi này tuyến bã nang lông không phát triển.
– Tuyến bã nang lông tơ: tuyến bã nang lông tơ nằm ở khắp nơi trên cơ thể trừ lòng bàn tay, bàn chân không có tuyến bã. Tuy tuyến bã nang lông tơ có kích thước nhỏ hơn tuyến bã nang lông dài nhưng tế bào tuyến hoạt động mạnh hơn, có kích thước lớn hơn, bài tiết chất bã nhiều hơn. ở mặt, tuyến bã phát triển gấp 5 lần ở những nơi khác, số lượng tuyến bã thay đổi khác nhau tùy vùng trên cơ thể, ở da đầu, mặt, ngực, lưng, tầng sinh môn có từ 400 – 900 cái/cm2 da. Các vùng còn lại có khoảng 100 cái/cm2 da. Tuyến bã ở miệng (hạt fordyce) và ở rãnh quy đầu (tuyến tyson) không đổ qua ống tuyến mà bài tiết trực tiếp lên niêm mạc.
2.4.3. Nang lông (hair follicles)
Nang lông là phần lõm sâu xuống của thượng bì chứa sợi lông và tiếp cận với tuyến bã. Cấu tạo của nang lông bao gồm: chất cơ bản của lông, sợi lông, lớp vỏ trong, lớp vỏ ngoài, gai lông. Các tế bào sắc tố có trong phần chất cơ bản của lông tạo nên màu sác cho sợi lông.
ở người có hai loại lông:
– Lông nhẵn hay còn gọi là lông tơ: là sợi lông ngắn bao phủ phần lớn cơ thể trừ lòng bàn tav, bàn chân.
– Lông dài là những sợi lông dài, cứng và có đường kính lớn hơn lông nhẵn. Lông dài nằm ở các vùng da đầu (tóc); xung quanh miệng (râu), lông nách, lông mu.
Ngoài ra thai nhi còn có lông tơ mịn mượt, lông này sẽ rụng đi trước khi sinh 2 tháng.
Một sợi lông gồm có ba phần: phần nầm trên thượng bì; phần mọc xuyên qua thương bì; phần nằm ở trong chân bì (trung bì). Phần nằm trong chân bì gọi là rễ lông. Nó được bao bọc bởi một vỏ gọi là nang lông. Nang lông có ba lớp: lớp bao biểu mô ngoài, bao biểu mô trong và bao xơ.
Mỗi nang lông có ba phần:
– Miệng nang lông thông ra mặt da.
– Cổ nang lông (hay còn gọi là phễu nang lông): tại đây có miệng tuyến bã thông ra ngoài.
– Bao nang lông là phần dài nhất ăn sâu xuống hạ bì.
Móng là một tấm sừng mỏng dày chừng 0,3 — 0,5 — 0,75mm nằm gọn trong một rãnh của mặt lưng (mu) đầu ngón.
Móng có bốn bờ, bờ tự do nằm ở đầu móng, ba bờ còn lại được các nếp da phủ lên gọi là bờ sau và hai bờ bên. Bờ sau và nếp gấp vùng gốc móng gọi là nếp gấp trên móng. Phần móng ở bờ sau có hình vát gọi là rễ móng. Phần còrv lại dày đều, hình khum gọi là thân móng. Thượng bì ở dưới móng tiếp với thượng bì da ở nếp gấp sau và các nếp gấp bên. Phần gốc móng có hình bán nguyệt gọi là liềm móng. Thượng bì ở dưới rễ móng gọi là mầm móng, đó là lớp sinh sản, có lớp malpighi khá dày.
Những tế bào ở mầm móng phát triển từ đáy mầm ra thân móng và dẹt đi biến thành lá sừng đắp vào mặt dưới của móng. Bản móng mọc liên tục từ gốc móng ra bò tự do. Mỗi ngày móng mọc dài ra khoáng 0,lmm. Móng chân mọc chậm hơn móng tay. Càng nhiều tuổi móng càng mọc chậm. Thời gian thay thế hoàn toàn 1 móng tay khoảng 3 tháng, móng chân 6 tháng.